Trang

Thứ Tư, 1 tháng 1, 2014

Nghệ Thuật Kiến Trúc MUGHAL


Delhi. Thành đỏ, thời kỳ Shd Jahan,
sau năm 1638. Bức họa hiện thực bởi một nghệ nhân Delhi,
khoảng năm 1820, thư viện văn phòng Ấn Độ, Lon Don

Được khắc lên trên những bức tường cẩm thạch của Diwan - i -khas tại Pháo Đài Đỏ ở Đề Li là một câu bằng tiếng Ba Tư mà người đời gán cho vua Jahan: “Nếu những ở trên đời này từng có một Vườn Địa Đàng hạnh phúc, thì nó đây, nó đây, nó đây!” . 

Vua Jahan cố gây phấn khích cho kỳ được đối với hậu thế tính ương ngạnh của một vị quân vương hùng mạnh. Ông là con cháu của một đế quốc xâm lược chỉ tự hài lòng với những gì tráng lệ nhất mà truyền thống nghệ thuật của Ấn Độ có thể tạo tác được. Dòng họ Mughals một cách tài tình đã biến truyền thống đó phù hợp với những sở thích riêng biệt của chính họ. Tính chất Trung Á và nghệ thuật thời đại của họ phô diễn những ảnh hưởng tương tác của các nền văn hóa, sự thể nghiệm táo bạo và sự canh tân tự tin. Nói riêng, qua nền kiến trúc của họ, dòng họ Mughals bày tỏ công khai sự tìm kiếm một cá tính nghệ thuật độc đáo để làm vẻ vang cho đế quốc họ.  

Do vị trí địa lý của nó, Ấn Độ đã luôn luôn là một nơi dung chứa những truyền thống nghệ thuật đa dạng bắt nguồn từ Tây Á và Trung Á. Nhưng khác với những kẻ xâm lăng Trung Á trước đây, họ Mughal ngoại hạng trong sự đánh giá nhạy bén về những truyền thống nghệ thuật bản xứ. Nhằm mục đích làm bóng bẩy hơn nữa tài nghệ phong phú của người Ấn Độ thời đó, các thợ thủ công người Ba Tư trốn thoát những biến động tại quê hương của họ ào ạt đổ xô tới Ấn Độ và nhận sự bảo trợ nhân từ tại triều đình Mughal. Các nhà quý tộc tị nạn và những văn sĩ từ Trung Á cũng nhập vào thêm cộng đồng đa tạp ngoài các linh mục dòng Tên và những người phiêu lưu của nước Ý. Sự thịnh vượng về ảnh hưởng sáng tạo cuối cùng dẫn tới sự nở rộ một phong cách cực kỳ phong phú và quan trọng của nghệ thuật Ấn Độ – là “phong cách Mughal”.    

Thánh Đường
Delhi, Thánh đường Hồi giáo Jami Masjip.
Mughal, thời Shad Jahan, niên đại 1644-58

Những nguồn gốc thật sự của nền kiến trúc Ấn – Âu ung dung bên trong các tàn tích của ngôi đền Hồi giáo đầu tiên của Ấn Độ thuộc thế kỷ thứ 12, được xây vào thời đại vua Đề Li.    

Đền Hồi giáo Quwat-ul-Islam, được hoàn chỉnh năm 1196, có nét đặc sắc ở các hàng hiên  Ấn Độ giáo mọc rải rác xung quanh một sân trong.  Do sự khan hiếm các thợ thủ công được đào tạo theo kiểu thức người Hồi vào thời đó, ngôi đền Hồi giáo được ráp lại một cách ngẫu nhiên từ những tàn tích của các ngôi đền Ấn Độ giáo và đạo Jain, các cột trụ của công trình kiến trúc, được khắc chạm với nhiều hình tượng không có diện mạo cụ thể nhưng lại có đường nét Ấn Độ giáo rõ rệt; bờ thành bao quanh cái sân đi mô phỏng theo một kiểu của những ngôi đền được chống đỡ bằng cột trụ của miền Nam Ấn Độ. Những cố gắng sau này trong việc mở rộng khuôn viên ngôi đền Hồi giáo đã làm cho nó đẹp thêm với một cái cổng ra vào cực kỳ vĩ đại vẫn còn đứng vững tới bây giờ. Bên trong khu vực của ngôi đền là tháp nhỏ Qutab của quốc vương Iltumish. Đó là một cái tháp có đường rãnh máng rõ rệt bằng những câu khắc phức tạp, những phần chạm trỗ trang trí và những bao lơn. Theo lối tô điểm rực rỡ và tính chất kiến trúc phức tạp của nó, tháp nhỏ Qutab có nguồn gốc từ di sản của nghệ thuật Ấn Độ bản xứ hơn là từ những kiểu thức kiến trúc Hồi giáo. Nhìn một cách toàn thể, các kiểu thức khác nhau dường như cộng tồn trong một ý tưởng lộn xộn không thuần nhất. Nó phản ánh thực tế hay thay đổi chỗ ở vào thế kỷ thứ 12 ở xứ Đề Li.     

Thành Lũy
Agra. Thành lũy. Được cẩn những lớp Pietra dura
(kỹ thuật tạo nên các tấm bằng đá
nhiều màu sắc và kiểu hoa)
trong bộ phận Musamman Burj.
Mughal, thời kỳ Shab Jahan, khoảng năm 1637

Những công trình Mughal vĩ đại đầu tiên Babur, một hậu duệ của cả Tamerlane lẫn Thành Cát Tư Hãn, lúc được mười lăm tuổi, đạt được tham vọng của mình trong việc soán ngôi của Tamerlane Afghanistan và vùng Samarkand tơ lụa sẵn lòng mở cổng cho ông. Tâm trí của Babur được thấm nhuần bởi một nền học vấn Ba Tư cổ điển tại nơi sinh quán của ông là Heart, đã ôm ấp vẻ tráng lệ của các tòa nhà tuyệt mỹ của Samarkand, những vườn hoa và sân chơi của nó. Được nung nấu bởi những ý nghĩ chiếm hữu món quà tặng của Ấn Độ, ông chuyển sự chú ý của ông sang hướng Nam và vào năm năm 1525 đã thu tóm được đế quốc Hindu rộng lớn.   

Babur cuốn hút vào những cố gắng của triều đại là cố tạo nên một dấu ấn kiến trúc có ý nghĩa, nhưng người chiến sĩ vĩ đại này vô cùng đam mê những vườn hoa. Những vườn hoa của Babur được chăm sóc một cách chu đáo, kết hợp ba khía cạnh của nền kiến trúc Hồi giáo: tính chặt chẽ, sự cân bằng và tính đối xứng. Phần lớn những đặc điểm của vườn hoa là việc sử dụng nước, điều xa xỉ tối hậu đối với những con người đi tới Ấn Độ từ những vùng sa mạc Trung Á. Trong tinh thần cố bảo tồn chu đáo một nguồn nước dồi dào theo mùa, nước chảy qua các vườn hoa được tái sinh và giữ trong tình trạng chuyển động bằng những phông - ten được thiết kế đơn giản và chúng được cung cấp nước bằng những kênh nhỏ hẹp. Các vườn hoa tạo nên một cảm giác đang hiện diện trong một thế giới riêng tự có trang hoàng bông hoa và cây ăn trái, và dòng nước làm êm dịu giác quan bằng âm thanh chuyển động của nó. Những toà nhà của Babur được tu sửa lại rộng rãi bởi các vị hoàng đế sau ông, nhưng vườn hoa của ông là diện mạo tiêu biểu của những thành tựu thuộc kiến trúc Mughal. Cả Jahangir cũng say sưa trong cái đẹp của thiên nhiên và những vườn hoa Nishat và Shalimar của ông tại Kashmir. Có lẽ là những ví dụ mỹ lệ của nghệ thuật xây dựng vườn hoa và công viên Mughal.   

Bức tiểu họa
Bức tiểu họa xuất xứ từ tác phẩm
Akbar-nama của Abul Fazl
.
Basawan vẽ và Chatai tô màu trên giấy;
Mughal, thời kỳ Akbar, khoảng năm 1595.
35,2x22,2cm.
Bảo tàng Victoria và Albert, Lon Don

Mặc dù Babur có công mang vào Ấn Độ sự khát khao đến mức đã trở thành ám ảnh về những vườn hoa của cư dân ở sa mạc, nhưng mãi tới khi ngôi mộ của con trai ông được xây dựng thì lối kiến trúc Mughal mới bắt đầu khẳng định cho nó một cá tính riêng biệt. Những kiểu thức Ba Tư, Ấn Độ và những kiểu thức đa dạng của các địa phương tỉnh lẻ hòa nhập nhau để tạo nên một công trình lịch sử đồ sộ, mà ở đó là nỗ lực thu tóm cho kỳ được những phẩm chất ưu việt là sự an bình và thanh thản. Với chất liệu sa thạch đỏ hòa lẫn với cẩm thạch được đẽo gọt qua loa, công trình chịu ảnh hưởng Ba Tư đáng kể là ở hình thể hình chữ nhật, bọc tường và được xây dựng trên một chân tường nâng cao, phần trên hết ở trung tâm là một mái vòm cao ngất. Quần thể kiến trúc được hoàn chỉnh bằng những vườn hoa trang trọng với những phông – ten nước và những vòm nhỏ nhô ra che mát. Công trình được khởi công ngay trong lúc ông còn sống và có lẽ, đó là dự tính để lại cho hậu thế một công trình có giá trị đáng kể. Như thể là ông muốn đền bù lại những năm tháng ông đã trải qua làm kẻ đào tẩu nghèo hèn trong triều đình Ba Tư sau khi ông bị tước quyền bởi quan nhiếp chính Sher Khan Sur. 

Trong lúc nắm quyền đế chế, Sher Khan đã làm thanh tú và đẹp lên những công trình kiến trúc bằng vữa hồ và gạch trần của những vị quốc vương của Đề Li có trước ông, mà kiểu thức bắt nguồn từ ngôi mộ có thành rào trổ tinh tế của quốc vương Iltutmish. Lên ngôi tại Purana Kila vào thế kỷ 14, ông xây lên một đài quan sát, như là kiến trúc báo trước cho công trình lịch sử Mughal có mái vòm phồng ra xuất hiện về sau, và một đền thờ Hồi giáo có những cổng xây rộng hướng về thánh địa Mecca. Phá vỡ kiểu thức Hồi giáo cổ truyền vốn rất chú trọng về tính đối xứng hình học tuyệt đối, ngôi đền được tạo hình dạng sao cho một khối lượng ánh sáng lớn nhất có thể chiếu vào cái sân lúc bình minh và hoàng hôn. Khi hạ bộ Sher Khan, chính Humayun bị công trình Purana Kila mới mẻ và có nhiều cải cách này gây ấn tượng mạnh đến độ ông chọn nó làm nơi cư trú mãi cho đến khi ông mất sớm sau khi bị ngã trên những bậc thềm trơn trợt của đài quan sát Sher Khan.   

Là con trai của Humayun, bản thân Akbar Đại vương là một con người khôn ngoan và khoan dung vì ông là người kém chữ nghĩa văn chương nên ông khuyến khích các học giả, các nhà thơ, họa sĩ và nhạc sĩ và biến triều đình của ông thành một trung tâm văn hóa, tôn giáo trí thức và tự do tư tưởng. Sự trị vì của ông là một ví dụ về một triều đình mà vua chúa đặt tiền đề trên một nhận thức khôn ngoan là cai trị một quốc gia rộng lớn về mặt địa lý và đa dạng về mặt văn hóa như Ấn Độ đòi hỏi sự khoan dung. Và rất nhiều sự hiểu biết giữa các nền văn hóa với nhau. Sinh ra trong một túp lều trong suốt thời kỳ cha ông bị lưu đày tại xứ Ba Tư, Akbar nhận thức sâu sắc ve những nhược điểm của vận may và liên tục tìm kiếm một chân lý tôn giáo riêng cho chính mình. Lối kiến trúc của thời đại Akbar – gồm có những công trình Fatehpur Sikri, pháo đài Đỏ tại Đề Li và pháo đài Agra – dường như đã phản ánh việc đi tìm sự hoàn thiện tuyệt hảo một cách say sưa trong sự phối hợp mạnh mẽ của kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Những công trình của Akbar đã đạt tới sự biểu tượng hóa quá trình tiếp cận những nền văn hóa mà ông luôn khích lệ và nuôi dưỡng.        

Người vợ chính của Akbar là Jodha Bai và cung điện của nàng đặt tại Agra với sự bày biện lớp lang các hiên nhà có mái che và các cây cột được chạm khắc mang tính chất thuần tuý Ấn Độ giáo về cấu trúc và hoa văn. Cung điện của hoàng thái hậu, hiện trường của những năm tháng hình thành của Jahangir, có sự đóng góp về mặt kiến trúc của nó qua việc giữ lại ảnh hưởng Ấn Độ giáo với các sân trong được bao bọc bởi các dãy cột, các bao lơn có rầm chìa và các kiểu mẫu trang trí công phu được chạm khắc thành dải. Cung điện nghỉ ngơi của ông tại Agra minh họa điều nầy một cách gây ấn tượng. Trớ trêu thay việc xây dựng ngôi mộ của ông tại Lahore là hành động khuất phục cuối cùng của ông đối với chính quyền giới nữ của hoàng hậu Nur Jahan. Bà đã sáng tác ra công trình bất chấp cả kiểu thức ưa thích Ấn Độ giáo của ông lẫn những truyền thống tập tục Hồi giáo.       

Ngôi mộ vua Humayun
Dehil. Ngôi mộ của vua Humayun. Kiểu thức Mughal,
thời kỳ Akbar, niên đại 1565-72

Dưới thời đại vua Jahan, kiến trúc Mughal đạt tới cực điểm của nó. Lên ngôi sau một cuộc chiến dai dẳng và đẫm máu với bào đệ xứng đáng hơn của ông là Hoàng tử Khusrau, vua Jahan nhanh chóng đặt sự thống trị của ông vượt hơn những vị hoàng đế trước ông. Chính sự tài hoa sáng chói của ông với tư cách là một kiến trúc sư, cuối cùng đã đưa kiểu thức kiến trúc Mughal phôi thai sang một độ chín muồi mang tính chất dứt khoát và cụ thể. Được sự trợ giúp phong phú của ngân khố ở Aga, triều đại cai trị của ông mở ra thời đại hoàng kim của nền nghiên cứu Mughal, hòa hợp những nét đặc sắc thích đáng nhất của các kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo cũng như đã sử dụng đầy đủ những vật liệu quý hiếm lộng lẫy. Mái vòm, một di sản do nền kiến trúc La Mã để lại cho người Hồi giáo, luôn luôn là một nét đặc sắc trung tâm, và hay làm tầm thường hóa các khía cạnh khác của một tòa nhà. Cẩm thạch được cẩn với xà cừ và cacnelian; trần nhà được tăng thêm lá vàng và những tiểu họa được sơn phết bằng bột đá quý nghiền nát. Hoàng đế làm việc từ Pháo đài Đỏ, được chỉnh trang mới và ông đặt tên là Shahjahanabad. Đích thân ông ngồi trên ngai vàng hình con công cẩn đầy ngọc thạch, kim cương, hồng ngọc và ngọc trai.  

Vua Jahan xây dựng công trình theo sở thích của mình. Ông đã tô điểm Pháo Đài Đỏ, làm cho nó sinh động và đàn ông tính như ông cha của ông. Ông ký thác sa thạch đỏ cho đống rác rưởi, cùng với các viên ngói láng bóng và kiểu tranh khảm bị hạn chế. Rút nguồn cảm hứng từ thế giới hiện thực, việc trang hoàng đối với ông ít mang tính chất hình học hơn và nặng về đề tài thiên nhiên hơn, mô tả cây cỏ và bông hoa chứa sự sống động nhịp nhàng mà ông nổi tiếng là một người sành điệu. Để minh chứng cho tài năng nghiên cứu của ông và sánh kịp với trách nhiệm của ông với tư cách là một người bảo vệ tín ngưỡng, ông khôn khéo làm dịu bớt tính chất xa xỉ của những cung điện khi ông xây dựng công trình Jame Masjid tại Đề Li, là một điện thờ công cộng. Đó là một công trình to lớn bằng đá, bệ vệ và trang nhã chứa những đặc thù của kiến trúc Hồi giáo ban sơ.

Một kiệt tác Mughal  Kiến trúc xa xỉ nhất của ông là công trình hoàn toàn bằng đa cẩm thạch tinh khiết màu trắng. Vật liệu nầy lấy được từ vùng Rajasthan và được các Rajputs sử dụng để trang trí mà Akbar cũng đã sử dụng cho công trình Fatehpur Sikri. Đối với con mắt của Shah Jahan, cẩm thạch trắng có một tính chất siêu phàm nhưng hiển hiện sự dịu dàng nữ tính gần như được đồng nhất với sắc đẹp của người quý phi sủng ái của ông là Mumtaz Mahal. Làm nhỏ loại tất cả những ngôi lăng tẩm vua chúa khác về cái đẹp, kích thước và giá cả, công trình Taj Mahal là kiệt tác của phong cách kiến trúc Mughal. Tính rực sáng của chất liệu cẩm thạch cho thấy rõ một công trình có màu sắc tinh khiết nhưng khi tới gần để nhìn kỹ thì sẽ phát hiện một sự giản dị phóng khoáng với các câu chữ rút từ kinh Coran và những hoa văn trang trí  uốn lượn được chạm trổ bông hoa bằng đá mã não, cacnelian, ngọc thạch và ngọc lam. Người ta bảo rằng sự đối xứng duyên dáng của mái vòm vĩ đại này có lẽ sẽ không có gì có thể so sánh được trong thời đại của chúng ta. Trình độ nghệ thuật đạt đến mức tài hoa của công trình nằm ở cả việc chọn lựa vật liệu lẫn khả năng tính toán chu đáo để thực hiện việc xây dựng nó.      

Agra
Agra, Taj Mahal. Mughal,
thời kỳ Shad Jahan, hoàn chỉnh năm 1653

Công việc kế hoạch hoá thực sự của công trình đã được gán cho nhiều người khác nhau: Ustad Isa, một người Thổ Nhĩ Kỳ của vùng Shiraz, kiến trúc sư người Vơ-ni-dơ tên là Jerome Veroneo và hai người vô danh nước Ba Tư mà về sau bị Hoàng đế làm cho mù mắt để ngăn ngừa khả năng dùng kiểu thức công trình Taj Mahal để tái tạo các công trình tương tự cho một vị quốc vương khác. Mặc dù không chắc chắn, nhưng rõ ràng là Taj Mahal đã thừa hưởng từ những nghệ nhân thuộc các trường phái có truyền thống khác nhau, và tất cả hòa hợp lại một cách dễ dàng trong quan niệm và thiết kế mang tính chất Ba Tư thuần tuý. Giấc mơ của Shah Jahan là xây dựng một công trình giống như đúc khác bên kia sông Yamuna. Nhưng bấy giờ các điều kiện thực tế đã khác: một là giá cả, và kế đó giai cấp nông dân ngày càng bất mãn và bị đánh thuế quá mức: cuối cùng sự lật đổ ông do người con trai khổ hạnh của ông là Aurangzeb thực hiện. 

Sự trị vì của Aurangzeb đánh dấu cho sự kết thúc vẻ rực rỡ ngôi nhà Babur. Cơn thịnh nộ đã phá tín ngưỡng của ông vua này đã dẫn tới việc phá huỷ phần lớn các nền nghệ thuật được xem là phát huy sự sùng bái thần tượng và những công trình kiến trúc của chính ông đều quá sơ sài và thiếu sinh động.      

Trong một khoảng chốc ngắn ngũi, các kiểu thức kiến trúc khác nhau gặp gỡ nhau trong một toàn cục mang tính chất chặt chẽ. Các nghệ nhân Ấn Độ đã luôn luôn chứng tỏ một khả năng đáng lưu ý là họ hấp thụ các ảnh hưởng ngoại quốc vào trong nhãn quan sáng tạo của họ hơn là chối bỏ chúng. Điều nầy năm vị hoàng đế Maghal đầu tiên đã khai thác triệt để. Lấy cảm hứng từ vẻ đẹp của các ốc đảo của vùng sa mạc và ngôi vườn hoa đẹp tựa thiên đàng của xứ Ba Tư, các kẻ xâm lược mưu trí nầy đã cố gắng phá vỡ truyền thống, tái tạo lại nghệ thuật Ấn Độ và thể hiện óc tưởng tượng của cá nhân họ về cái nguy nga vĩ đại. Nếu như các nền nghệ thuật đã từng tiến gần đến sự nắm bắt cái khung cảnh Vườn Địa Đàng trên trái đất thì có lẽ thực sự đó chính là giây phút này.

  Nguyễn Tuấn Dịch từ tạp chí Silver Kris

Các bài viết khác trong Thông tin Mỹ thuật số 07-08

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Quần thể kiến trúc Mahabalipuram

Quần thể kiến trúc Mahabalipuram, Ấn Độ

Quần thể kiến trúc Mahabalipuram gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau được xây dựng dưới triều đại vua Pallava trong thời gian từu thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 8. Quần thể kiến trúc Mahabalipuram chạy dọc theo bờ biển Coromandel với những công trình chính gồm: đền Rathas; khu bảo tồn hang động Madapas; bức phù điêu khổng lồ; đền thờ của Rivage; ngoài ra còn có hàng ngàn tác phẩm điêu khắc khác.

Quần thể kiến trúc Mahabalipuram là một đại diện quan trong và là minh chứng cho thời kỳ thịnh vượng của triều đại Pallava – một vương triều nằm ở phía Đông Nam của Ấn Độ. Trước đây, Mahabalipuram là một bến cảnh của Ấn Độ, vào thời kỳ hưng thịnh, bến càng này là nơi giao thương buôn bán giữa thương lái Ấn Độ và các đất nước khác ở Đông Nam Á như vương quốc Khmer ( Campuchia), vương quốc Shrivijaya ( Malaysia) và các đế chế Champa ( An Nam). Những thế kỷ sau đó, mặc dù đã qua thời kỳ hưng thịnh, Quần thể kiến trúc Mahabalipuram vẫn nổi tiếng bởi bến cảng Mahabalipuram và những đền thờ của đạo Bà La Môn.

Một số công trình kiến trúc tại quần thể kiến trúc Mahabalipuram..

 Các di tích chính ở quần thể kiến trúc Mahabalipuram gồm:

Đền thờ Rathas: đền Rathas có hình dáng giống xe ngựa, đây là một công trình được xây dựng bằng đá nguyên khối và nối lại với nhau bằng cát. Đền Rathas nổi tiếng nhất vào thời đại Naharasimhavarman Mamalla (từ năm 630 đến năm 68), lúc này Mahabalipuram là một thành phố lớn của Ấn Độ.

Khu bảo tồn Mandapas ( khu bảo tồn hang động): đây là những hang đá mô hình được dựng để chứa đựng những bức phù điêu của các triều đại. Những bức phù điêu này chủ yếu có nội dung về các vị thần Vishnu, Pandavas và Krisha..Mặc dù có đến hàng nghìn bức phù điêu song bức phù điêu giá trị nhất phải kể đến bức phù điêu mô tả thần Durga, bức phù điều này diễn tả cảnh tượng thần Dugra giết con quỷ đầu trâu Mahishsura..có thể nói đây là một trong những kiệt tác của nghệ thuật tạo hình Ấn Độ. 

Các tác phẩm điêu khắc trên kiến trúc tại Mahabalipuram, Ấn Độ

Bức phù điêu khổng lồ được xây dựng theo hình tượng thần Shiva, thần của vùng sông Hằng và tôn giáo Ấn Độ. Theo truyền thuyết kể lại vua Baghirata đã xin trời đất ban cho dòng sông để người dân bớt khổ cực và hạn hán. Lời cầu nguyện của vua Baghirata đã thấu đến trời xanh và thần Shiva đã được lệnh tạo ra con sông Hằng để làm nguồn nước nuôi dưỡng dân chúng. Bức phù điêu này sau đó được dựng lên để tỏ lòng biết ơn thần Shiva.

Đền thờ của Rivage cũng giống như nhiều ngôi đến khác ở Ấn Độ đều được xây dựng từ đá. Đền thờ của Rivage được xây dựng dưới thời vua Rajasimha Narasimavarmn II ( 695 -722). Đền có nhiều tháp và hàng ngàn tác phẩm điêu khắc với chủ đề chính là thần Shiva

Một vẻ đẹp kiến trúc khác không thể không nhắc đến đó là đền thờ Shore, trên nền biển xanh sâu của đại dương đền Shore đưgs sừng sững với một vẻ đẹp tráng lễ và lộng lẫy. Đền thờ Shore cũng là một trong những công trình kiến trúc đỉnh cao của của Ấn Độ. Hiện nay đến thờ này đang bị đe dọa bởi sự xói mòn từ nước biển, các tác phẩm điêu khắc ở đây ngày càng mất nét và trở nên không rõ ràng.

Quần thể kiến trúc Mahabalipuram nhận được nhiều sự quan tâm của Chính phủ Ấn Độ sau hơn 40 năm khu vực này bị bỏ ngỏ. Một đề án quy hoạch tổng thể quần thể kiến trúc Mahabalipuram đã được Bộ Văn hóa và Du lịch đệ trình lên Chính phủ vào năm 2003. Những công việc dọn dẹp, nhặt rác ở quanh khu vực di sản cũng thường xuyên được thực hiện.  Chính phủ đã cho xây dựng một hàng rào xung quanh khu di tích, cương quyết dẹp nạn bán hàng rong, lấn chiếm. Bên cạnh đó, Chính phủ còn kêu gọi các tổ chức tài trợ đề thăp đèn chiếu sáng toàn bộ khu di tích vào buổi toois. Hiện nay, Chính phủ Ấn Độ đang có một kế hoạch đầy tham vọng là xây dựng một con đường từ phía sau đền Shore chạy vòng quanh khu di tích để thuận tiện cho du khách thăm quan và phát triển du lịch.

NLH

 

Kiến trúc phật giáo sớm nhất của Ấn Độ Stupa sanchi và chùa Hang Ajanta

Kiến trúc phật giáo sớm nhất của Ấn Độ
Stupa sanchi và chùa Hang Ajanta

Khi còn sống, Phật truyền bá ý tưởng của mình:

''Trước đây và ngày nay, ta chi lí giải và nêu ra chân lí vế nỗi đau khổ và sự giải thoát về nỗi đau khổ''.

“Cũng như nước đại dương chỉ có một vị mặn, học thuyết của ta chì có một vị là cứu vớt”.

Chân lí về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ chính là điều trăn trở của Phật giáo mà mục đích cuối cùng là nhằm chỉ ra cho con người con đường chấm dứt mọi khổ đau. Như vậy, điểm xuất phát của đạo Phật là vô thần- Phật chẳng hê tự coi mình là thần thánh. Nhưng rồi người đời dần dần tôn vinh, thần thánh hóa Phật và người sáng lập ra đạo Phật trở thành một hình tượng vĩnh cửu để thờ tự. Theo đó, những công trình kiến trúc Phật giáo lần lượt xuất hiện theo ý niệm của người đời.

Ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VI trước Công nguyên nhưng phải vào khoảng một hai thế kỉ tiếp giáp Công nguyên, những công trình kiến trúc Phật giáo sớm nhất của Ấn Độ mới thấy xuất hiện. Đây chính là những nguyên mẫu lí tưởng của nghệ thuật Phật giáo. Đứng về mặt kiến trúc, ngay từ thời kì này, đã xuất hiện hai loại hình chủ yếu của kiến trúc Phật giáo. Loại hình thứ nhất là loại hình thờ thánh tích, gọi là Stupa, một hình thức mộ táng nhưng cũng đồng thời là tháp, tiếng Ấn gọi là Dhatu, tức là nơi đặt thánh tích, di tích (hay xá lị) Phật. Loại hình thứ hai gọi là chùa, với khái niệm bao hàm là nơi thờ hình tượng Phật và là chỗ ở của nhà tu hành. Cấu trúc chủ yếu gồm hai phần: nơi làm lễ và nơi cư ngụ của sư.

Tiêu biểu cho hai loại hình kiến trúc Phật giáo đó là Stupa Sanchi và chùa Hang Ajanta.

Stupa Sanchi - bảo tháp lớn tưởng niệm Phật của nhiều thế hệ người Ấn

Tục truyền rằng, khi Phật sắp qua đời, môn đồ của Người - Ananda hỏi: ''Xin Người dạy nên giữ thánh tích của Người như thế nào?'' Phật không nói, chỉ lấy áo cà sa gấp lại trải trên đất, rồi lấy bát khất thực úp lên áo và đặt gậy chống lên trên. Ý Phật như thế nào không ai biết rõ. Nhưng dựa vào truyền thuyết này người đời đã xây bảo tháp, nơi thờ thánh tích của Phật trong vũ trụ, đặt trên một nền cao, trên đỉnh có đài hình vuông.

Những bảo tháp đầu tiên ra đời dưới tiều vua Asoka, một ông vua rất sùng đạo Phật của Vương triều Morya (821 - 187 TCN) - vương triều bản địa đầu tiên của người Ấn sau giai đoạn cai trị của người Hy Lạp. Asoka trị vì từ năm 236 - 187 trước Công nguyên, được coi là vị vua cuối cùng của Vương triều Morya chính thống. Trong những năm tháng trị vì của mình, Asoka đã cho dựng 84.000 tháp Phật, và có thể coi đây là những công trình kiến trúc thuần túy tôn giáo đầu tiên của Ấn còn lại cho đến ngày nay. Những tháp Phật này tập trung nhiều ở vùng Sanchi bên bờ sông Nacmada, thuộc miền Trung Ấn, nay thuộc bang Madya Prades.

Người đời nhiều khi vẫn không lí giải nổi về những việc làm của vị Hoàng đế này. Tại sao Asoka lại cho xây nhiều bảo tháp đến vậy? Hẳn cuộc đời của vị Hoàng đế này có nhiều trắc trở. Trong những năm đầu làm vua, Asoka đã từng là một Hoàng đế khắc nghiệt, thậm chí tàn ác. Theo truyền thuyết, Asoka đã lập ra một nhà ngục giết hại nhiều người bằng cực hình tàn khốc, trong đó có nhiều anh em, thê thiếp, triều thần của Nhà vua. Những dòng ghi chép của nhà sư Trung Hoa - đời Đường - là Huyền Trang, khi đến Ấn Độ vào thế kỉ thứ VII có nói rằng mọi người vẫn nhớ nhà tù đó, và gọi là địa ngục Asoka. Trong quá trình chinh chiến mở rộng lãnh thổ - để biến Vương quốc Magada thành một đế quốc rộng lớn chưa từng có ở Ấn Độ lúc bấy giờ, bao gồm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ, Pakistan và một phần Apganistan ngày nay, trừ vùng cực nam cao nguyên Decan - Asoka đã giết hơn 10 vạn người, bắt làm tù binh 15 vạn. Có lẽ hối hận vì những hành động tàn bạo của mình, Asoka tự thức tỉnh, nguyện làm một tín đồ của đạo Phật. Ông tỏ lòng khoan dung trắc ẩn với dân chúng. Nhà vua trịnh trọng tuyên bố rằng: ''Sẽ lấy sự chinh phục bằng tình thương thay thế cho sự chinh phục bằng sức mạnh'', phá bỏ nhà tù, bỏ cực hình, xây nhiều chùa chiền. Nhưng rồi về cuối đời, những việc làm từ thiện của ông đã không đem lại sự củng cố vững chắc cho quyền lực. Ông chết trong cảnh buồn thảm, bất hạnh, giữa sự chống đối của nhiều giáo phái khác nhau, trong đó có sự chống đối đáng kể của đẳng cấp Bàlamôn. Tuy nhiên, những cố gắng trong việc truyền bá đạo Phật của ông đã thành công. Chính từ những khát vọng, những mơ mộng thiếu thực tế của Asoka mà ngày nay, đến Sanchi ta còn bắt gặp những công trình kiến trúc Phật giáo cổ kính tuyệt mĩ.

Trải rộng trên một cao nguyên, Sanchi hiện lên uy nghi giữa những đỉnh tháp, nhà tu, miếu mạo, chùa chiền... Lác đác trên các sườn đồi, những con đường nhỏ tĩnh mịch thấp thoáng bóng các nhà tu hành trầm ngâm trong cõi đời thực hư... Trong khung cảnh đó, bảo tháp lớn- Stupa Sanehi hiện lên hùng vĩ và trầm mặc.

Đó là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn với nghệ thuật điêu khắc, và là tác phẩm của nhiều thế hệ người Ấn sùng đạo Phật mà ý tưởng ban đầu thuộc về triều đại Asoka. Đầu tiên, người ta xây tháp bằng gạch, sau đó đến thế kỉ thứ II tháp đã được ốp thêm bằng đá cho to rộng hơn. Tháp có chiều cao 15m, đường kính 35m, bao gồm 3 bộ phận chính: một bán cầu, trên có một vọng lầu và một hàng rào xung quanh.

Trên một nền kiến trúc vuông vức (áo cà sa gấp bốn của đức Phật) là một bán cầu khối đặc khổng lồ bằng gạch và đá, hình một cái bát úp sấp, chỏm hơi dẹt. Trên chỏm có xây một vọng lâu hình vuông, được cho là nơi để xá lị Phật. Trên tận cùng nóc là một cột có gắn 3 phiến đá lớn hình đĩa, tạo thành một chiếc dù nhiều tầng mà người ta cho là biểu tượng của sự tôn nghiêm, nhưng cũng có thể là để che mưa nắng. Chung quanh bán cầu có một hàng rào đá bao bọc, gồm 120 thanh cột chống, mở ra 4 hướng đông, tây, nam, bắc (H. 26 a, b, c).

Hình 26 a: Tháp thế kỉ I trước CN- thế kỉ I sau CN. Sanchi, Madhya Pradesh

Sau đó, công trình kiến trúc kì vĩ thần bí này tiếp tục được người Ấn hoàn thành vào khoảng cuối thế kỉ I, trong một hoàn cảnh xã hội đã thay đổi, nhưng lòng sùng kính Phật vẫn còn nguyên như những khát vọng của Asoka ngày nào.

Hình 26b: Phục chế một trụ cổng (torâna), Sanchi, theo P.Brow

Hình 26c: Cửa đông, hai con chằn cái chân quì, đá, thế kỉ I sau CN, Sanchi.

Lần trùng tu và xây dựng mới này thuộc về Vương triều Andra (hay Satavnhata) - nguyên là một Vương triều miền Nam Ấn, trước đã từng bị đế quốc Magada thôn tính dưới thời Asoka. Năm 28 TCN, Andra chiếm Magada. Vào thế kỉ II, nó đã phát triển thành một đế quốc rộng lớn, lãnh thổ mở rộng đến tận phía bắc lặng Vindya, có nghĩa là bao gồm cả Trung Ấn, nơi có vùng đất Phật Sanchi. Đế quốc Andra tồn tại khoảng 460 năm, vào khoảng thế kỉ thứ III thì tan rã, nhưng giai đoạn này vẫn được coi như là một thời kì bình yên, với sự phát triển đáng kể của kĩ nghệ và thương mại Ấn. Đặc biệt họ đã có những quan hệ buôn bán và hòa trộn văn hóa với người Koma. Những nhà buôn Roma đã đem đến vùng cao nguyên Decan cách sống tinh tế, lịch làm của họ cùng với một khối lượng của cải đáng kể, giúp cho sự phát triển của kinh tế vùng này. Nhiều thành phố mới được xây dựng và trở nên hưng thịnh. Một tầng lớp nhà buôn mới, giàu có xuất hiện, và họ chính là những người bảo trợ nhiệt thành cho những công trình kiến trúc, nghệ thuật dưới triều đại Andra.

Trung Ấn vốn là một vùng đất thấm đượm văn hóa Phật từ hàng thế kỉ trước dưới Vương triều Morya, do đó những công trình nghệ thuật đạt đến đỉnh cao huy hoàng trong giai đoạn Andra chính là những công trình thuộc về kiến trúc Phật giáo. Stupa Sanchi tiếp tục được hoàn thiện vào khoảng thế kỉ I và chủ yếu là ở bốn cổng ra vào, và chính những chiếc cổng này đã làm nên điều huyền diệu cho bảo tháp lớn thiêng liêng này.

Ứng với bốn hướng đông, tây, nam, bắc là bốn cổng làm bằng đá, mỗi cổng bao gồm hai cột đứng thẳng đỡ ba xà ngang hơi cong bắc ngang, biểu tượng của tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lại) trong giáo lí nhà Phật. Ở mỗi cột, mỗi dầu cột, mỗi cây chéo, mỗi cây chống đều đầy hình chạm nổi, được đánh giá là ''đạt đến trình độ điêu luyện của nghệ thuật chạm nổi'', “một thảm điêu khắc dày đặc, sống động và tinh tế”. Người nghệ sĩ tài ba đã sáng tạo nghệ thuật theo chủ đề tôn giáo, nhưng lại đưa nghệ thuật vượt lên cả tôn giáo, thể hiện một xúc cảm tràn trề, đắm say đối với cái đẹp và đối với cuộc sống. Những hình chạm nổi hỗn hợp đủ các loại thảo mộc, thú vật, người và thần thánh hết sức tinh vi, uyển chuyển và mềm mại. Đàn voi phủ phục, đàn sư tử cúi đầu, đàn hổ mắt lim dim... rồi chim thần Garuda, rắn thần Nga, những chú khỉ tinh nghịch, những con chim trĩ mềm mại... như cả một khu rừng xanh hiển hiện, thức tỉnh vùng đồi Sanchi yên tĩnh. Hình ảnh thú vật ở đây được coi như là bạn bè, là người anh em với con người trong cùng một kiếp luân hồi.

Được chạm khắc nhiều nhất vẫn là những hình ảnh huyền thoại về nhà Phật; bánh xe pháp luân, những tín đồ sống khổ hạnh, ăn uống đạm bạc, cởi trần tự hành hạ về thể xác để được thanh thản về phần hồn. Rồi những hình ảnh minh họa về cuộc đời Phật. Ở cổng phía đông, trên một cái cột đá có một mặt chạm khắc cảnh Thích Ca Mâu Ni ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề, chân xếp, tay chắp lên ngực, mắt nhìn xuống ẩn chứa bao nỗi niềm trăn trở, từ bi... để trong tâm người đời tìm thấy sự tĩnh lặng, và dòng thời gian vẫn êm đềm trôi hàng ngàn năm nay dưới cái nhìn ẩn đật đó.

Kì lạ thay Ấn Độ! Hiển hiện một thế giới suy tư. Con người sinh ra như để triết lí về ý nghĩa cuộc đời. Đời là khổ ''nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước đại dương'', kiếp người lại không ngừng tái sinh, luân hồi, nên chỉ có thể xa lánh cõi trầm luân để thoát khỏi luân hồi. Nhưng bản thân cuộc sống là thực tế, không thể tự mình suy tư để thoát khỏi trần thế, thoát khỏi sự phân biệt đẳng cấp sâu sắc đang ngự trị trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Đạo Phật dần dần nhường chỗ cho sự trở lại của đạo Bàlamôn dưới một dạng hoàn chỉnh hơn, đó là đạo Hindu, như một sự thừa nhận thực tế. Và dường như Stupa Sanchi là công trình kiến trúc không hẳn Phật giáo mà mang cả âm hưởng của Hindu.

Cũng ở trên cổng phía đông, nơi có gốc cây bồ đề mà Phật Tổ giác đạo, còn có chạm nổi một nữ thần (Yaksi)- Will Durand miêu tả: ''Chân tay nặng nề, mông dày, bụng thon, bộ ngực nhô ra đồ sộ, điệu bộ phóng túng gợi tình''. Hai bên cây chéo của cổng, bên cạnh những chú voi cong vòi sống động, cũng nhìn thấy những pho tượng đắp nổi đẹp tuyệt vời của những tiên nữ khỏa thân. Trong tư thế bay bổng trên không trung, cơ thể uốn cong, dáng đứng uyển chuyển mềm mại, mình thon, ngực và hông nở, những tiên nữ toát lên một vẻ đẹp vừa trần tục, vừa thánh thiện. Một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật đã thất lên đầy thán phục: ''...Người thợ điêu khắc Ấn Độ đã biết phô diễn một cách tuyệt vời cơ thể con người, ở tượng nữ quần áo đơn giản đến mức người ta chỉ có cảm giác. Và tính nhục cảm thể hiện rõ ở đôi môi, bộ ngực, cánh tay... tất cả đều tràn trề một tình cảm nồng thắm, cháy bỏng tình người''.

Sanchi đã trở thành một phong cách nghệ thuật trong nghệ thuật cổ điển Ấn Độ, thể hiện rõ một quan niệm thẩm mĩ nhiều nữ tính- sự đầy đặn của hình thể, cử chỉ mềm mại theo dáng uốn lượn, sự biểu lộ rõ của các khối nổi... Những đặc điểm đó sau này ảnh hưởng rất rõ nét trong trường phái nghệ thuật Mathura.

Chùa hang Ajanta, kiệt tác của nghệ thuật cơ đại Ấn Độ

Thật hiếm có một dân tộc nào trên thế giới mà lòng nhiệt thành với tôn giáo lại nồng thắm, cháy bỏng như người Ấn. Từ một khối núi đá khổng lồ họ đã bỏ ra biết bao công sức để đục đẽo tạo thành những công trình kiến trúc kì vĩ và tỉ mỉ. Đứng trước những công trình đó con người không có một cảm giác nào khác ngoài sự thán phục trước cái đẹp do chính con người tạo ra. Chùa hang Ajanta là một công trình kiến trúc như vậy! Từ thế kỉ thứ VII, nhà sư Trung Quốc Huyền Trang tới đó đã phải thốt lên: ''Ở đây tất cả mọi thứ đều kì vĩ, đồng thời tất cả mọi cái cũng đều tinh tế''.

Hình 27: Chùa hang Ajanta

Nằm ở miền Trung Ấn (nay thuộc bang Maharastra), phức hợp hang Ajanta bao gồm 30 chùa, trong đó có những công trình được tạo ra từ thời vương triều Andra, như hang số IX và số X. Hầu hết những chùa hang còn lại là sản phẩm của vương triều Phật giáo Gupta (320 - giữa thế kỉ VIII), trong đó giai đoạn từ thế kỉ IV đến thế kỉ VI vẫn được coi là ''thời đại hoàng kim'' của văn học, nghệ thuật Ấn Độ và cũng là giai đoạn đánh dấu sự phát triển tuyệt đỉnh của nghệ thuật Phật giáo.

Những ngôi chùa được đục khoét sâu trong lòng hang đá, có bàn thờ Phật, đại sảnh để làm lễ. Phía ngoài thường có khoảng 20 hàng cột bằng đá đục liền, trang trí công phu trước khi qua dãy hiên vào đại sảnh. Hai bên có hai dãy trai phòng dùng làm nơi cư ngụ của các sư.

Người ta đục đền thờ trong lòng hang và đáy hang, và có lẽ chính vì phải cắt, đục trong lòng núi đá mà có khái niệm ''chùa hang''. Mỗi hang là một công trình kiến trúc, nghệ thuật. Có những hang rất lớn, như hang số XVI, dài rộng mỗi chiều tới 20 mét. Hang I và hang II có những phòng hội họp mênh mông, có những cột lớn đục đường soi, chân vuông, phía trên tròn trang trí hình những tràng hoa lớn. Hang XXVI có những hang cột trụ vĩ dại đỡ một ngạch cửa với những hình chạm trổ tinh tế.

Các hang ở Ajanta chứa đầy những bức họa đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo. Chi chít trên vòm hang và đáy hang lả những bức vẽ màu. Người ta thống kê trong 30 hang có 16 hang vẽ những cảnh rất sinh động về sự tích nhà Phật bằng phẩm màu đỏ, xanh, lam, trên nền đá tự nhiên. Hang số XVIII, rất nổi tiếng với bức bích họa miêu tả một người phụ nữ và một đứa trẻ, khuôn mặt khao khát hướng đến sự giải thoát, được giải thích là vợ và con của đức Phật. Còn hang XIX không thể không kể đến hình tượng Phật đứng (Budhapad) chạm khắc nổi trên nền đá xám, áo cà sa bó thân, trơn tru, bám sát vào cơ thể, hở vai phải. Khuôn mặt lí tưởng hóa, hơi mỉm cười, đôi mắt nhìn xuống, với những dấu hiệu quý tướng biểu trưng của thần thánh (tóc xoăn, tai dài...). Tay phải được tạc liền thần, lòng bàn tay mở hướng ra phía trước theo thế Abhayamudra. Bức phù điêu này vẫn được coi là một nguyên mẫu của tượng Phật đứng, mà sau đó một ít có thể bắt gặp khá phổ biến trong nền nghệ thuật Phật giáo ở một số nước trên thế giới.

Hình 28: Chùa hang Ajanta - hang số XIX (phục hồi thiết diện, theo P. Brow).

Ngoài ra còn phải kể đến rất nhiều phù điêu mô tả cuộc sống nhiều mặt của người dân Ấn đương thời. Nét vẽ, nét chạm khắc sắc sảo, màu rất tươi, rất hiện thực. Đặc biệt, ở những tác phẩm đó, trang phục và trang sức của các nhân vật được miêu tả khá chi tiết ở các nhân vật nữ chẳng hạn, từ đầu tóc, quần áo, đồ trang sức đến tư thế... tất cả đều quá hoàn hảo. Chính vì thế, Ajanta mãi mãi là một kho tàng vô giá chẳng những đối với nghệ thuật mà còn đối với các ngành khoa học nghiên cứu lịch sử, dân tộc học...

Nhiều người còn nói đến nghệ thuật bố trí ánh sáng khéo léo trong hang, làm cho những hình ảnh được mô tả trở nên sống động. Tùy theo góc độ xem tranh mà cảm thấy nhân vật hiện lên với vẻ trầm tư nghiêm nghị hoặc hiện lên với một nụ cười dịu dàng như chưa bao giờ thấy.

Một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật Ấn Độ đã nhận xét về Ajanta: ''Tình cảm ở đây được biểu hiện rõ rệt dưới các hình thức khác nhau: trong sắc lá mùa xuân, trong dáng ngọn cây nghiêng mình trước cơn giông tố, trong cách đứng ngồi, cách cau mày, trong dáng điệu uể oải của làn mi cụp xuống, trong cái run rẩy của đôi môi, trong cách lau một giọt lệ hoặc hạ tấm mạng choàng...''.

Di tích lịch sử, nghệ thuật quý giá này đã bị chìm trong quên lãng hàng chục thế kỉ, mãi đến năm 1819 mới được phát hiện ra. Từ đó và mãi mãi, nó vẫn được xếp vào hàng những kiệt tác nghệ thuật của nhân loại, báu vật trong kho tàng văn hóa của loài người.

Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO * KẾT LUẬN

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO * KẾT LUẬN

 

KẾT LUẬN


Trong thế giới này, Hồi giáo và Thiên chúa giáo đông nhất, Phật giáo đứng hạng ba về dân số thế giới.Sau khi nghiên cứu về Phật giáo trên thế giới, tôi thấy xúc động tràn ngập tâm hồn.
Tôi nghĩ rằng những người xưa đã tạo ra những điện thờ trong hang động Ấn Độ và Java là những thần nhân từ hành tinh nào đến và đã bỏ lại đàng sau những công trình vĩ đại. Tại Trung Hoa, Nhật bản , Cambodia đã có những công trình kiến trúc vĩ đại của Phật giáo. Và từ đó, ta thấy người Việt Nam ta không có những công trình lớn mà chỉ là những am nhỏ, chùa nhỏ. Chùa Một Cột là một công trình kiến trúc độc đáo nhưng quá nhỏ. Dân Khmer, dân Chàm có những công trình lớn hơn ta nhiều mặc dầu ta có những kiến trúc sư tài ba như Nguyễn An, người xây thành Bắc Kinh. Có lẽ nước ta nghèo. Cũng có thể  các nhà kiến trúc, và các sư ta có tinh thần tri túc mạnh mẽ, không cần xây dựng nhiều,  chỉ cần một bàn thờ nhỏ, một chỗ ngồi tĩnh tọa, một chỗ nằm và có một không gian cho vài người lần lượt lễ bái và có thể chứa một hai đệ tử là đủ. Chừng đó cũng đủ cho ta làm chủ, làm trụ trì.. Ta biết ta, không cần ai, không liên hệ vói ai cho thêm phiền toái....

Có vài công trình tương đối vĩ đại do những trí tuệ siêu việt sáng tạo, nhưng đa số là chùa nhỏ. Lịch sử các ngôi chùa Việt Nam cho biết đa số ban đầu là những chòi lá, nhà tranh đơn sơ sau một thời gian, người ta xây cất lên những ngôi chùa khang trang hơn tồn tại cho đến ngày nay dù đã qua bao cơn hoại diệt. Một số chùa đã mất tích vì chiến tranh, vì thực dân, vì cộng sản, vì bạo quyền và vì lòng tham sân si của con người. Phật giáo cũng  chỉ là  một hiện tượng, một pháp trong vạn pháp cho nên cũng phải tuân thủ quy luật "thành, trụ, hoại, diệt" của vũ trụ. 

Tại Việt Nam, Phật giáo đã phải trải qua nhiều cơn Pháp nạn. Ngày nay hòa bình đã trở lại, nhưng chết chóc, đọa đầy và xich xiềng vẫn đeo nặng trên thân thể Phật tử và  tín đồ các tôn giáo khác. Phật giáo đã cùng chung nỗi đau khổ của dân tộc Việt Nam nghèo khổ, mất tự do và dân chủ. Sau 1975, những ai không theo cộng sản thì bị đọa đầy, giam cầm, tra tấn. Chúng đuổi một số nhà tu về nhà, hoặc bỏ họ trong lao tù, còn chùa chiền thì chúng cướp phá. Công an ở trong chùa, điều khiển mọi hoạt động của chùa. Chúng cho cán bộ, bô đội hưu trí ở trong chùa giả làm ni, sư. Chúng lấy cớ sửa chữa chùa chiền để phá chùa chiền. Một mặt chúng lấy tiền nhà nước, sơn phết qua loa và phá hoại nét cổ kính và hiền hòa của cửa chùa. Một sự kiện khá rõ rệt là diện tích  một số các chùa ngày càng hao hụt , có khi mất hơn một nửa vì lý do nảy hay lý do khác, nhất là sau 1975 . Hành động tàn ác của chúng lấy nước  Đông hải rửa không  sạch vết nhơ, lấy trúc Nam sơn ghi không hết tội .

Tâm người Việt Nam nhỏ bé,  đa số chạy theo bọn ác, kể cả trí thức và sư sãi. Phật tử phải theo lời Phật dạy là làm lành lánh dữ . Còn những ai chạy theo bọn phản quốc, cướp đoạt quyền tự do dân chủ của nhân dân đều là bọn hung tàn mặc dầu chúng mặc áo nâu sòng, đầu cạo trọc. Một số  tu hành nhưng lòng dạ tôm tép.  Ở Việt Nam ta it kẻ có lòng như ông Mai Thọ Truyền, biết tổ chức Phật giáo thành hệ thống. Không ai có lòng truyền bá Phật giáo ra khỏi khuôn viên chùa mình, nói chi chuyện lên núi sâu rừng thẳm hay vượt đại dương mà truyền đạo như chư tăng thời vua A Dục, như thầy Huyền Trang, như Đạt Ma sư tổ...
Phật giáo hiện nay đã tùy duyên mà hành xử. Như Đài Loan, như Hồng Kông, như Nhật Bản đã kiến tạo những cơ sở Phật giáo vĩ đại. Nhưng tại vài nước Âu Mỹ, Phật giáo tiến từng bước thận trọng và nhẹ nhàng. Đa số là những trung tâm dạy Thiền. Có thể là một lớp tại trường nào, hay building nào, hay thương xá nào. Thứ bảy, chủ nhật, công ty đóng cửa, người ta tập họp tại một phòng nào đó, khảm thờ ở trong một cái tủ hay một phòng nhỏ mà ngày thường là cửa hàng, là văn phòng. Lớn hơn nữa, các Phật tử thuê nhà, mua nhà, mua nhà thờ mà sửa lại thành chùa.

Đa số chúng ta nhỏ bé và hèn mọn, như con sâu và con kiến trong cuộc đời nhưng có một số người rất vĩ đại. Họ có một cái tâm bao la và một cái tài vĩ đại cho nên đã tổ chức, vạch kế hoạch và thực hiện những công trình tráng lệ và huy hoàng trong hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Họ phối hợp với nhau hàng trăm người, hàng ngàn người lao đông trí tuệ và lao động chân tay kết họp hàng chục năm để tạo những ngôi chùa vĩ đại trong hang núi, trên đỉnh cao và giữa đô thị hiện đại của cuối thế kỷ XX.

Những công trình đó rất vĩ đại với những tháp cao, bằng mấy chục tầng lầu, những tượng Phật cao mấy chục mét, và những bức tranh lụa hay vẽ vào tường rất linh động và tuyệt mĩ. Cái gì đã làm cho những nghệ sĩ, những công nhân đã ra sức kiến tạo những công trình nghệ thuật đó? Phải chăng do cái cao siêu của  triết lý bình đẳng, từ bi, tự lực của  Phật giáo? Phải chăng  chính khuôn mặt  hiền hậu của đức Phật và Quan Âm Bồ tát đã nâng cao tâm hồn con người , đưa con người đi vào suối chân thiện mỹ và nghệ thuật sáng tạo?

Nghĩ xa hơn nữa, đời quả là sự chuyển luân và nhân quả tương tác. Từ thế kỳ XIV, người Âu châu đã đi truyền đạo khắp nơi Á châu thì nay bằng hòa bình Á châu lại gieo mầm Phật pháp tại Âu, Mỹ, Phi.
Và quả là vũ trụ xoay vần và phát triển theo chiều hướng tích cực. Phật giáo đã có cơ sở tại Trung Đông, Phi châu và nước Ý. Điều này cho thấy con người ngày nay rộng mở, đã đón nhận những luồng gió mới, rất khoan dung, không khắc nghiệt, không kỳ thị như thời trung cổ. Chúng ta mong mỏi các tôn giáo trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau, thực hiện từ bi, bác ái của đấng Tối cao để tạo hòa bình cho thế giới này
.
 Tuy nhiên bên cạnh sự tiến bộ của tâm khai phóng, chúng ta còn thầy đâu đó những sự sân hận và bạo tàn.  Người ta vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền. Chùa chiến Phật giáo bị phá hoại, chư tăng và Phật tử vị sát hại, bị cầm tù và bị vu khống. Chúng ta cần phải nhẫn nhục, tinh tấn để sống hòa bình trong thế giới này.

Như đã trình bày ở lời nói đầu, bộ sách này chỉ là công trình sưu tập tài liệu, hình ảnh của những người đi trước. Người sưu tập thu góp hương trời từ muôn phương để trao gửi đến muôn phương những màu sắc của nhân loại và vũ trụ.  Khép tập sách này lại, chúng ta đã đi ngao du trên 30 quốc gia với gần ngàn ngôi đền, chùa khác nhau. Chúng ta đã  đi hành hương về Phật tích, chúng ta đã đi ngắm cảnh quan khắp nơi từ cảnh thâm u cổ tích  cho đến chốn hùng vĩ, hiện đại.  Chúng  ta đã thấy cái hùng vĩ của văn minh Ấn Độ, những sắc thái Phật giáo Tây Tạng, Trung quốc, Thái Lan và Nhật Bản.  Chúng ta đã vào đất Phật, Cầu mong  tâm viên  quý vị  nở đầy  những đóa hoa từ bi , và  trái an lạc.
Ottawa ngày 30  tháng 9 năm 2013
Nguyễn Thiên Thụ




PHỤ LỤC: Danh sách các chùa Việt Nam

A. CÀC CHÙA Ở HÀ NỘI

1- CHÙA LÁNG - Đống Đa 

2- CHÙA PHỤNG THÁNH- Đống Đa  
 3. CHÙA MỘT CỘT-Ba Đình
4- CHÙA TRẤN QUỐC -Ba Đình
5- CHÙA BÁT THÁP- Ba Đình
6. CHÙA THẦN QUANG - Ba Đình
7. CHÙA HOÈ NHAI-Ba Đình
8. CHÙA LÝ QUỐC SƯ- Hoàn Kiếm
9- CHÙA QUÁN SỨ: Hoàn Kiếm
10 . CHÙA CẦU ĐÔNG - Hoàn Kiếm
11- CHÙA LIÊN PHÁI- Hai Bà Trưng
12. CHÙA KIM LIÊN -Tây Hồ
13.  CHÙA BÀ ĐANH - Tây Hồ 

 B. CÁC CHÙA Ở MIỀN BẮC

14. CHÙA TAM THANH -Lạng Sơn
15. CHÙA QUỲNH LÂM-QuảngYên

16. CÁC CHÙA TRÊN NÚI YÊN TỬ - Quảng  Yên

17. CHÙA VĨNH NGHIÊM- BắcGiang
18.CHÙA BỔ ĐÀ-  BắcGiang
19. CHÙA NON NƯỚC-Ninh Bình
20. CHÙA BÁI ĐÍNH – Ninh Bình
21.  CHÙA THẦY -Sơn Tây
22. CHÙA  TÂY PHƯƠNG-Sơn Tây 
23. CHÙA MÍA -Sơn Tây
24.  CHÙA TIÊU SƠN-Bắc Ninh
25. CHÙA CẢM ỨNG-Băc Ninh
26. CHÙA PHẬT TÍCH - Bắc Ninh
27- CHÙA ĐẬU  - Bắc Ninh
28.  CHÙA BÚT THÁP -Bắc Ninh
29.  CHÙA SỦI - Bắc Ninh
30. CHÙA ĐÀO XUYÊN - Bắc Ninh
31. CHÙA KEO -Bắc Ninh.
32. CHÙA TRĂM GIAN -Bắc Ninh
33. CHÙA TRĂM GIAN-  Chương Mỹ (Hà Đông)
34.CHÙA DÂU - Hà Đông
35. CHÙA BỐI KHÊ -Hà Đông
36. CHÙA BỒ ĐỀ - Hà Đông
37.CHÙA THANH AM, Hà Đông
38. CHÙA KHUYẾN LƯƠNG-  HàĐông
39.QUẦN THỂ CHÙA HƯƠNG-  Hà  Đông
40. CHÙA LONG ĐỌI- Hà Nam
41. CHÙA VỌNG CUNG-Nam Định
42. CHÙA MỄ SỞ- Hưng Yên
43. CHÙA TƯ PHÚC  - Hải Dương 
44. THIỀN VIỆN TRÚC LÂM - Vĩnh Phúc
45. CHÙA TÙNG VÂN- Vĩnh Phúc